Đại việt sử lược ghi rằng: Ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505-462 tr.CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo.

Nước ta lại ở vào vị trí chiến lược của vùng Đông Nam Á, nằm trên các đầu mối giao thông thuỷ bộ quan trọng từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây như một đầu cầu từ biển cả tiến vào đất liền. Đây cũng là nơi giao lưu kinh tế, văn hóa thuận lợi và cũng là nơi xảy ra nhiều đụng độ và nhiều mối đe doạ ngoại xâm. Yêu cầu liên kết, thống nhất lực lượng để tự vệ cũng không kém phần cấp thiết như yêu cầu liên kết để đấu tranh chống những trở ngại của thiên nhiên.

Sự tăng nhanh về tỷ lệ vũ khí so với hiện vật trong các di tích từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, đã chứng tỏ một hiện tượng nổi lên ở cuối thời Hùng Vương là xã hội có nhiều mối đe doạ và xung đột. Trong hoàn cảnh như vậy, những yêu cầu nói trên đã có tác động đẩy mạnh sự quần tụ thống nhất cư dân sống trong các địa vực khác nhau có cùng tiếng nói và phong tục thành một cộng đồng cư dân thống nhất. Từ thực tế lịch sử đó, trải qua các thế hệ nối tiếp, ý thức xây dựng và củng cố mối quan hệ gắn bó họ hàng, làng, nước được tăng cường. Điều đó, đã đưa đến sự liên minh giữa nhiều bộ lạc lớn với nhau (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung do bộ lạc Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là ngưỡng cửa của một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.

Theo truyền thuyết dân gian và sử sách cổ, đứng đầu nước Văn Lang là Hùng Vương. Nước Văn Lang được chia thành 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc), đứng đầu mỗi bộ là lạc tướng (còn gọi là phụ đạo). Dưới đó là bồ chính đứng đầu công xã nông thôn.

Ngay các danh hiệu Hùng Vương, phụ đạo, bổ chính cũng đã phản ánh tiến trình các quý tộc thị tộc chuyển hoá thành các quan chức nhà nước, chức năng xã hội được chuyển hoá thành quyền lực nhà nước. Có lẽ các chữ phụ đạo, bồ chính cũng là từ Hán dùng để phiên âm từ Việt cổ: Trong tiếng Mường có từ “đạo”, trong tiếng Giarai có từ “tạo” và trong trong tiếng Bana có từ “ba đao”… đều có nghĩa là tù trưởng, thủ lĩnh, người đứng đầu một vùng; trong tiếng Tày và tiếng Thái có từ “pó chiêng”, trong ngôn ngữ của các dân tộc vùng Tây Nguyên có từ “pô ta rinh” nghĩa là già làng.

Sự chuyển hoá quyền lực từ việc thực hiện chức năng xã hội thành quyền lực nhà nước và quý tộc thị tộc biến đổi thành quan chức nhà nước là hai yếu tố biểu hiện cụ thể của sự hình thành nhà nước. Quá trình chuyển hoá, biến đổi đó diễn ra một cách chậm chạp và lâu dài từ giai đoạn Phùng Nguyên qua các giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun, được phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn Đông Sơn.

Về sự hình thành của nhà nước ở cuối thời Hùng Vương hiện còn có những ý kiến giải thích khác nhau. Một số học giả cho rằng ở cuối thời Hùng Vương, xã hội nguyên thuỷ đang trong quá trình tan rã, nhà nước chưa ra đời mà mới chỉ có chế độ dân chủ quân sự bộ lạc. Một số nhà khoa học khác lại cho rằng, dù còn sơ khai nhưng nhà nước đã hình thành vào cuối thời Hùng Vương.

Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể đoán định có cơ sở rằng thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tư cách là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII-VI tr.CN (ở giai đoạn Đông Sơn).

Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn sơ khai và có phần sớm khi trong xã hội phân hóa chưa sâu sắc (như do tác động mạnh mẽ của yêu cầu thuỷ lợi và chống ngoại xâm thúc đẩy cho sự ra đời sớm) nhưng đã đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam- mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.