Khi Trung Quán dẫn đến Từ Bi …

§§§§§§§§§§§§§

Tương truyền Lục Tổ, lúc còn là người bán củi, đã giác ngộ khi nghe một nhà sư hành khất đọc câu này. 

Tâm có nhiều định nghĩa tùy theo lý thuyết được dùng đến. Ở đây chúng ta chỉ hạn chế vấn đề “Tâm” trong câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Trong câu này người ta muốn nói hai điều, là : 

1) “Tâm sinh” : tức là phải có cái gì đó để ý thức thì mới có ý thức (mới “sinh tâm” về cái ấy). Ý thức là “ý thức về một cái gì đó”, nó cũng là một “pháp”, và cũng sinh diệt. Thí dụ mình thấy một người, ý thức (tâm) về người ấy liền nảy sinh. “Nảy sinh” vì trước đó mình không biết người này, không biết anh ta hiện hữu, là ai, làm gì v.v… Sau đó, nói chuyện, giao thiệp với anh ta, ý thức về anh ta phát triển, mình biết thêm anh ta làm nghề gì, nhà ở đâu, biết làm thơ, biết hát v.v… Rồi bãng đi nhiều năm không gặp, ý thức này biến mất, theo quy trình “thành, trụ, hoại, diệt”, nhường chỗ cho những chuyện khác. Nhưng nó được ghi lại trong ký ức, để khi có gì đó nhắc đến anh này, thì ký ức ấy xuất hiện, và một ý thức mới nảy sinh, nhưng lần này là “ý thức về một ký ức”, tức là ý thức về cái mà mình nhớ về người kia. 

2) và : “Vô sở trụ” có nghĩa là : không gắn cái ý thức mới được sinh ra (vì “đối pháp”) ấy, với những ý thức đã sẵn có. Nói cụ thể là tránh những định kiến (“chấp trước”). Cái tâm được sinh ra ấy, nên là một cái gì mới mẻ (vô sở trụ), vì những chấp trước, kể cả lý thuyết, giáo điều … đều bị coi là sai lầm, theo lý thuyết Bát Nhã – Trung Quán. 

Vân 

Về Trung quán : “vài hàng về Trung Quán Minh Cú Luận”: http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=887&kind=1

(xin chép dán dòng nối, nếu cần) 

 Lời thêm : 
 
Câu này đến từ triết lý Trung Quán (Madhyamika), trong đó mọi “chân lý” có sẵn đều bị phủ định. Nguyệt Xứng (Chandrakirti) trong Trung Quán Minh Cú luận không những phản bác “ngoại đạo”, mà phản bác cả những luận điểm cơ bản của Phật Giáo như “thập nhị nhân duyên” (chương 24 và 26). Thái độ này tóm tắt trong câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” : không trụ vào một sự chấp trước, dù cho đó có là Phật Pháp, khi tâm đối cảnh mà sinh ra. Rồi lập trường “không trụ vào một sự chấp trước”, cũng phải bị phản bác nốt, vì chính nó cũng là một sự chấp trước. Rốt cuộc “phật pháp” thực sự là “không” tức “không có pháp nào để nói ra được” và vị Phật thực sự là “Phật vô ngôn”. Không mấy ai chấp nhận được thái độ này, nhưng điều ấy không quan trọng, vì không có gì để thuyết phục ai, chỉ tùy duyên thể hiện tâm Từ Bi giúp người mà thôi.