Hệ thống lễ hội của người Việt được hình thành trên nền tảng các tín ngưỡng dân gian bản địa, như tục thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng nông nghiệp cổ, tục thờ phụng các anh hùng lịch sử và danh nhân văn hóa, cùng với tục thờ Mẫu và thờ Bà. Những lễ hội này được tổ chức tại các ngôi đình, chùa, đền (miếu, điện, phủ) trải rộng khắp các làng xã trong cả nước. Lễ hội không chỉ là dịp tôn vinh và tưởng niệm các vị thần thánh linh thiêng mà còn là những sự kiện văn hóa – xã hội đặc trưng của từng làng, thường diễn ra theo chu kỳ hàng năm.

Những lễ hội này chính là lễ hội làng, hay còn gọi là hội làng. Ngoài ra, còn có những lễ hội lớn hơn, thu hút nhiều làng hay vùng miền tham gia như lễ hội đền Hùng (Phú Thọ), lễ hội đền Trường Yên (Hoa Lư, Ninh Bình), lễ hội đền Thánh Gióng làng Phù Đổng (Gia Lâm, Hà Nội), lễ hội đền Kiếp Bạc (Hải Dương). Trong thời phong kiến, các lễ hội này được tổ chức rất long trọng, với sự tham gia của Thượng thư Bộ Lễ và các quan đầu tỉnh, thành. Đây được coi là quốc lễ, thu hút đông đảo nhân dân khắp nơi tham dự, tạo nên không khí náo nhiệt và vui tươi. Những dịp này đã trở thành truyền thống văn hóa, thể hiện lòng kính trọng và hướng về tổ tiên, cội nguồn lịch sử – văn hóa của dân tộc.

Theo dòng lịch sử văn hóa và lễ hội dân gian, sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa lễ hội với các tôn giáo ngoại nhập là một quy luật khách quan tất yếu. Tuy nhiên, trước khi các tôn giáo ngoại nhập vào nước ta, người Việt cổ đã có một nền văn hóa – lễ hội bản địa khá hoàn thiện và vững chắc. Đây là nền tảng cho sự giao lưu, hòa nhập với các nền văn hóa của các dân tộc láng giềng và thế giới trong các giai đoạn lịch sử kế tiếp.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, văn hóa – lễ hội dân tộc trải qua nhiều thử thách lớn lao. Nhờ có bản lĩnh kiên định và vững vàng từ thời Hùng Vương dựng nước, đỉnh cao là văn hóa – văn minh Đông Sơn, nền văn hóa dân tộc ta vẫn tồn tại và phát triển suốt nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Qua đó, đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần giữ vững và phát huy giá trị văn hóa dân tộc.