Đọc Ngũ LuânThư – Go Rin No Sho – duyệt lại vài hiểu biết cơ bản về Mật Tông Phật Giáo, với những ứng dụng thực tế

§§§§§§§§§§§§

GO RIN NO SHO, là một tác phẩm danh tiếng của Kiếm Sư Nhật Bản Miyamoto Musashi, thế kỷ 16.

VÀI HÀNG VNGŨ ĐẠI:

Chúng ta thường quen với Ngũ Hành trong hệ thống Trung Hoa gồm Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Khi viết “Ngũ Luân Thư”, Musashi sử dụng một hệ thống khác, với Địa, Thuỷ, Hoả, Phong và Hư Không. Hệ thống này được thuật ngPhật Giáo gọi là Ngũ Đại” hay “TĐại đều Không” (TĐại giai Không) .

Lùi trong thời gian, vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, Empédocle, người thành Agrigente, đảo Sicile, đã cho rằng Địa, Thuỷ, Hoả và Khí, là những căn nguyên của mọi sự vật. Thuyết này thịnh hành tại Tây Phương cho đến thế kỷ 18, và hiện vẫn được sử dụng trong khoa chiêm tinh bói toán. Một điều lý thú về Empédocle là ông ta tin tưởng vào thuyết luân hồi, như nhiều trường phái Ấn Độ.  

Điều này mời gọi chúng ta nhìn về phía Ấn Độ (nhớ là Hy Lạp thuộc hệ văn hóa Ấn Âu), để nhận xét là người Ấn vốn quan niệm một hệ thống căn nguyên của sự vật bao gồm Địa, Thuỷ, Hoả, Phong và Hư Không, như được sử dụng bởi Musashi. Chắc chắn Musashi đã biết đến hệ thống ấy do ảnh hưởng của Phật Giáo.

Nếu cho “không khí” của Empédocle là tương đương với “phong” (trong tiếng Pháp – cũng thuộc văn hóa “Ấn Âu” – chữ Air”, vừa chỉ “không khí”, vừa có nghĩa là“gió”), thì Ngũ Đại của Ấn Độ khác thuyết “tứ đại” của Tây Phương ở điểm có thêm “Hư Không” (trong các đồ hình được xếp ở trung ương), và giống Tây Phương bởi bốn yếu tkhác nằm ở bốn hướng chung quanh.
 
Cũng như Ngũ Hành của Trung Hoa, Ngũ Đại của Ấn Độ, sau này được sử dụng trong Phật giáo, là một cách phân chia các sự kiện vật lý cũng như tâm lý thành năm loại, như năm ngăn tủ, có những liên hệ nhất định với nhau. Những sự kiện được xếp trong cùng một “ngăn”, được coi như tương ứng với nhau. Cần để ý đến các tương ứng này khi đọc Ngũ Luân Thư …

Trong hệ thống Phật Giáo, đặc biệt là Mật Tông, thì 
 
ĐỊA ứng với Bảo Sanh Như Lai(Ratna Sambhava), ngự ở hướng Nam, âm là “Trah”, tượng trưng cho giác ngộ bình đẳng tánh trí, vô phân biệt trí. Trong Ngũ Uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), thì ứng với uẩn Thọ. Trong màu sắc ứng với màu vàng. Trong Bi, Trí, Dũng, thì ứng với Từ Bi. Vong niệm được Ngài chuyển hoá là tính kiêu ngạo, cho mình là hơn, là cách biệt, với người khác (vô phân biệt mà !). Thủ ấn của Ngài là Dana Mudra, bàn tay phải đặt ngửa buông thõng tượng trưng cho bố thí. Toà ngồi của Ngài đặt trên lưng ngựa. Ngài có thể được coi như chỗ nương tựa, bảo hộ, dưỡng nuôi.  

Trong kiếm pháp có thể ứng với việc luyện tập các bài kiếm căn bản như Musashi quan niệm. Trong đấu tranh chính trị có thể là việc xây dựng cơ cấu, tổ chức, lý thuyết (cơ cấu Đảng, tổ chức quân đội, chính quyền …).  

Phải chăng những công việc tổ chức và xây dựng cơ cấu ấy phải ứng với những đức tính tượng trưng bởi Ngài Bảo Sanh Như Lai, như vô ngã, bình đẳng, vô phân biệt, không kiêu ngạo, hy sinh, và tập trung vào uẩn Thọ, tức những gì chúng ta cảm nhận được từ môi trường chung quanh, với óc thực tế, đồng thời biết cảm nhận và đáp ứng những nhu cầu của tha nhân ?

THUỶ ứng với Bất Động Như Lai (hay A Súc Bệ – Aksobhya), ngự ở phương Đông, âm là “Hum”, ứng với nhập thế, giải thoát, cứu độ, đi từ vô biên đi vào thế giới hữu hạn để thực hiện sự cứu độ, nhưng cũng chuyển từ hữu hạn đến vô biên để thực hiện sự giải thoát. Uẩn tương ứng là “Sắc”, tức cấu trúc vật chất (nhưng “Sắc” cũng là “Không” !). Vong niệm được Ngài chuyển hoá là sự thù oán, tức giận (phải nhờ nước làm cho nguội đi !). Thủ Ấn là Xúc Địa Ấn (cũng mang ý nghĩa nhập thế, cứu độ), với bàn tay bên phải úp xuống, buông thõng. Toà ngồi là lưng voi. Về màu sắc ứng với màu xanh dương.  

Musashi coi đó là sự uyển chuyển, mềm nhưng cứng, không nhưng có, của kiếm sĩ. Tựu trung cũng là đặc tính của Bất Động Như Lai : vừa Sắc vừa Không, vô biên trong hữu hạn, bất biến nhưng lại thích nghi được với mọi hoàn cảnh (như nước).  

Thuỷ cũng là khả năng xâm nhập len lỏi vào hàng ngũ, đất địa của đối phương, hay vào nhân quần, xã hội,  tương ứng với  ý tưởng “nhập thế” của Bất Động Như Lai.

HOẢ ứng với Vô Lượng Quang Như Lai (Amitabha), cũng là Đức A Di Đà, âm là Hrih, ngự ở phương Tây, ứng với màu đỏ, thủ ấn là “thiền định ấn” (Dhyana Mudra), tượng trưng cho Diệu Quan Sát Trí, trong ngũ uẩn ứng với uẩn “Tưởng”. Toà ngồi của Ngài đặt trên lưng công, vì công có “mắt” ở mỗi cánh lông. Tất cả những biểu tượng của Ngài đều quy về khái niệm “nhìn” một cách sáng suốt, thấy rõ thực tướng của sự vật, bằng quán tưởng, bằng thiền định, bằng ánh sáng vô lượng (Vô Lượng Quang) của sự quan sát huyền diệu (Diệu Quan Sát Trí). Hiệu quả của sự sáng suốt ấy hoàn toàn đột ngột, không có thời hạn, như bóng tối, gặp ánh sáng mạnh mẽ chiếu tới, thì liền bị đánh tan đi ngay. Hiệu năng của “Diệu Quan Sát” cũng ví như lửa, tàn phá thiêu đốt rất nhanh chóng những tà niệm, những sai quấy, những ảo tưởng, để lộ ra cái chân thật không thể đốt cháy, không thể chối bỏ của sự vật. Trong Bi Trí Dũng, đương nhiên là  Vô Lượng Quang Như Lai ứng với “Trí”. Vọng niệm được Ngài chuyển hóa là tham dục, cố chấp (vì làm tổn hại cho sự sáng suốt). 

Trong kiếm đạo, Hỏa, cũng như Vô Lượng Quang Như Lai, tượng trưng cho sự sáng suốt nhìn thấy rõ nhược điểm của đối phương và tấn công chớp nhoáng tiêu diệt đối phương. 

Trong trường đời cũng như trong đấu tranh chính trị, công dung của sự sáng suốt phải chăng cũng mạnh mẽ như thế ? Tôi liên tưởng tới câu chuyện Đô Đốc Togo, chỉ huy Hải Quân Hoàng Gia Nhật trong trận Đối Mã, năm 1905. Khi nghe báo tin đã phát hiện hạm đội Nga, một hạm đội vĩ đại vào bậc nhất của Tây Phương thời bấy giờ, ông không lộ vẻ xúc động nào, chỉ thản nhiên đọc cho tuỳ viên đánh đi một điện văn ngắn gọn như sau: “Vừa phát hiện địch, tiến đánh và tiêu diệt địch. Trời đẹp, Biển động”.  

Đối với bậc kiếm sư, thì gươm rời khỏi vỏ là đầu địch thủ đã coi như lìa khỏi cổ rồi !

PHONG ứng với Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddi), ngự ở phương Bắc, âm là “Ah”, tượng trưng cho Thành Sở Tác Trí, cho hành động, cho sự sống, cho hơi thở, cho sự chuyển động, biến hoá, cho pháp thuật. Uẩn tương ứng là Uẩn Hành, tức ý chí đưa đến hành động tác thành. Trong Bi Trí Dũng, Ngài ứng với sự dũng cảm, tâm vô uý (không sợ sệt), là những đức tính trợ giúp cho quyết tâm hành động. Vọng niệm mà Ngài chuyển hoá là lòng ganh tỵ, vì ganh tỵ là nghĩ đến mình, mà hễ nghĩ đến mình nhiều quá thì dễ sanh lo sợ, cần quên mình đi mới dễ có được những hành động dũng cảm. Hào quang của Ngài màu lục, tức sự kết hợp giữa màu xanh của Bất Động Như Lai (ý niệm nhập thế cứu độ), và màu vàng của Bảo Sanh Như Lai (ý niệm từ bi, bố thí). Toà ngồi của Ngài trên lưng “người chim” (Garuda, cũng giống như thiên thần trong truyền thống Do Thái, Hồi, và Ky Tô Giáo). Ấn quyết của Ngài là “vô uý ấn” (Abhaya Mudra), tay phải giơ ngang ngực, hơi hướng ra ngoài, như đẩy những hiểm nguy lo sợ ra xa, không cho phạm vào mình.  

Phong, cũng như Bất Không Thành Tựu Như Lai là biểu tượng của hành động dũng cảm, không sợ sệt, vì đã nhận định rõ ràng, và không do dự, vì đã phát nguyện chắc chắn, để thể hiện lý tưởng trong hành động, đem thiên thu vào phút chốc.

KHÔNG ứng với Đại Nhật Quang Như Lai (Vairocana), ngự ở trung ương, là tổng thể của các vị Phật vừa được kể. Không những Ngài là tất cả các vị Phật tương ứng với Phong, Hoả, Địa, Thuỷ, mà phải nói Ngài là tất cả, là ý thức vũ trụ, là ý thức nguyên thuỷ, tiềm tàng nơi mọi sự vật. Âm của ngài là “Om” (cho ra « omnia » trong La Tinh, nghĩa là “tất cả”). Ngài ứng với Uẩn “Thức”, với màu trắng (tổng hợp các màu), toà ngồi trên lưng sư tử, ấn quyết là Chuyển Pháp Luân Ấn (Dharma Cakra Mudra). Vọng niệm được Ngài chuyển hoá là Vô Minh, nguồn của mọi vọng niệm, của mọi khổ đau. Ngài cũng tượng trưng cho sức sáng tạo vô biên.  

Trong võ thuật cũng như trong đời sống, Đại Nhật Quang ứng với sự thâm nhập một cách toàn diện những đặc tính của Phong Hoả Thuỷ Địa, đưa đến phản ứng, hành động thuận lý, thuận tình, một cách hoàn toàn tự nhiên mà không cần suy nghĩ tính toán. Cũng có thể nói đó là thấm nhuần cái lý duy nhất tiềm tàng trong các biểu tượng Phong Hoả Thuỷ Địa, và các vị Phật tương ứng, để rồi để cho cái lý nhất quán ấy tự nhiên vận hành  trong mọi động tác cũng như  toàn bộ cuộc sống.  

Trong tổ chức, Đại Nhật Quang Như Lai cũng ứng với vai trò của lãnh tụ, tức là người vừa lãnh đạo, nhưng cũng vừa phải vận dụng ý thức như thể chính mình cũng là từng thành viên của tổ chức, để nắm vững mọi quan điểm, mọi tình cảnh, mọi khía cạnh của công việc. 

Nguyễn Hoài Vân